Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp là gì? Các công bố khoa học về Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp

Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp (hay còn gọi là polyp hắc mạc) là một tình trạng hiếm gặp trên mắt, trong đó có sự hình thành của một polyp nằm ở mô mạch máu h...

Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp (hay còn gọi là polyp hắc mạc) là một tình trạng hiếm gặp trên mắt, trong đó có sự hình thành của một polyp nằm ở mô mạch máu hắc mạc. Polyp hắc mạc thường có hình dạng như cái túi nhỏ, có thể nổi lên từ bề mặt hắc mạc, và thường không gây ra triệu chứng hoặc mất thị lực.

Polyp hắc mạc có thể xảy ra ở mọi độ tuổi, nhưng thường xuất hiện ở trẻ em và người trẻ tuổi. Điều gây ra sự hình thành polyp hắc mạc vẫn chưa được rõ ràng, nhưng có thể liên quan đến các yếu tố di truyền.

Trong trường hợp nếu polyp hắc mạc gây ra triệu chứng như khích lệch mạch máu, nổi mạch mạch máu, hoặc gây ra sự mất thị lực, thì điều trị có thể được thực hiện bằng cách loại bỏ polyp bằng phẫu thuật hoặc laser.
Polyp hắc mạc được hình thành do sự tăng sinh tế bào mạch máu hắc mạc bất thường. Chúng thường có màu đỏ hoặc tím, và có thể kích thước từ nhỏ như một hạt bột đến lớn như một trái nho.

Nguyên nhân của polyp hắc mạc chưa được xác định rõ, nhưng có một số yếu tố có thể đóng vai trò trong sự hình thành của chúng. Yếu tố di truyền đã được đề xuất, vì có một vài trường hợp cùng loại bệnh trong gia đình. Ngoài ra, polyp hắc mạc cũng có thể liên quan đến sự mở rộng của mạch máu hắc mạc và các vấn đề về sự phát triển của mạch máu hắc mạc trong mắt.

Trong nhiều trường hợp, polyp hắc mạc không gây ra triệu chứng và không cần điều trị. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, polyp hắc mạc có thể gây ra những vấn đề khác nhau. Các triệu chứng phổ biến gồm:

1. Nổi mạch mạch máu: Polyp hắc mạc có thể gây ra sự mở rộng và vỡ nổi mạch mạch máu, làm cho mạch máu trên bề mặt hắc mạc trở nên rõ ràng hơn.

2. Khích lệch mạch máu: Polyp hắc mạc có thể làm kích thích phản ứng tạo mạch mới, gây ra sự tắc nghẽn hoặc chảy máu trong mạch máu hắc mạc.

3. Mất thị lực: Nếu polyp hắc mạc lớn và gắn kết với mạch máu hoặc các cấu trúc khác trong mắt, nó có thể gây ra mất thị lực hoặc giảm khả năng nhìn.

Điều trị polyp hắc mạc thường được thực hiện khi chúng gây ra triệu chứng hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe của mắt. Đặc biệt, phẫu thuật là lựa chọn phổ biến để loại bỏ polyp. Phẫu thuật có thể được thực hiện bằng cách loại bỏ toàn bộ polyp hoặc chỉ loại bỏ một phần của nó. Ngoài ra, laser photocoagulation cũng có thể được sử dụng để cắt ngắn và làm lún polyp, giảm thiểu triệu chứng và kiểm soát sự tăng trưởng của chúng.

Sau khi điều trị, bệnh nhân thường được đề nghị thường xuyên theo dõi và kiểm tra mắt để đảm bảo rằng polyp không tái phát và không gây ra các vấn đề khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp":

NGHIÊN CỨU BỆNH MẠCH MÁU HẮC MẠC DẠNG POLYP BẰNG CHỤP MẠCH OCT TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp bằng chụp mạch OCT. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang trên bệnh nhân được chẩn đoán PCV bằng chụp ICGA, tại khoa  mắt Bệnh viện Lão khoa Trung ương từ 8/2020 đến 8/2021. Kết quả: nghiên cứu 28 bệnh nhân (28 mắt) được chẩn đoán xác định trên chụp xanh indocyanine (ICG), trong đó có 17 bệnh nhân (BN) nam, 11 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình 61,07 ± 8,41  (cao nhất 80 tuổi, thấp nhất 44 tuổi). ICGA phát hiện PL ở tất cả các mắt (100%), trong khi OCTA phát hiện PL ở 17 mắt (60,7%); ICGA phát hiện BVN ở 14 mắt (50%), trong khi OCTA phát hiện BVN ở 16 mắt (57,1%). Tất cả các BVN được OCTA phát hiện đều nằm giữa RPE và màng Bruch. Diện tích polyp trung bình trong ICGA và OCTA (OCTA + và ICGA +) là 0,47 ± 0,31mm2 và 0,17 ± 0,16mm2. Kết luận: ICG là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán PCV,sử dụng OCTA mà không tiêm thuốc nhuộm có thể hữu ích để theo dõi sự tiến triển hoặc tái phát. Diện tích polyp trung bình được đo bằng ICGA lớn hơn đáng kể so với đo bằng OCTA.
#Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp #chụp xanh indocyanine #chụp cắt lớp võng mạc #chụp cắt lớp quang học mạch máu
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH MẠCH MÁU HẮC MẠC DẠNG POLYP BẰNG TIÊM NỘI NHÃN BEVACIZUMAB
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị bằng bevacizumab bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên toàn bộ các bệnh nhân được chẩn đoán bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp có vị trí ở hoàng điểm và cạnh hoàng điểm, tại khoa Dịch kính – Võng mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 10 năm 2013 đến hết tháng 02 năm 2020. Kết quả: 11 mắt (11 bệnh nhân) xác định được polyp tại hoàng điểm và cạnh hoàng hoàng điểm với số mũi tiêm trung bình là 4,55 ± 1,57 (từ 3 đến 6 mũi). Sự cải thiện thị lực gần như không đáng kể sau 6 tháng điều trị. Thị lực trung bình tăng rõ rệt nhất xuất hiện tại thời điểm 1 tháng sau tiêm mũi thứ nhất. Thị lực tăng tốt nhất ở tháng thứ 5 (0,84 đơn vị logMAR) khác biệt có ý nghĩa so với trước điều trị với p<0,05. Tương tự như sự thay đổi thị lực trung bình, mức độ thay đổi thị lực tốt chỉ gặp ở 1 mắt (9,1%). Đa số các trường hợp không cải thiện hoặc giảm thị lực sau 6 tháng theo dõi (6 ca - chiếm 54,5%). Có 4 mắt (36,4%) thị lực ổn định. Sau khi tiêm, độ dày võng mạc có giảm nhưng không có ý nghĩa thống kê. Đánh giá kết quả chung chỉ có 1 mắt (9,1%) điều trị tốt, mức trung bình ở 3 mắt (27,3%), kết quả kém là đa số 7 mắt (63,4%). Kết luận: Điều trị tiêm bevacizumab nội nhãn với polyp tại hoàng điểm và sát hoàng điểm có tỉ lệ tăng thị lực ít (9,1%), giảm độ dày võng mạc không đáng kể, tỉ lệ thành công khá thấp (36,4%).
#Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp #bevacizumab #độ dầy võng mạc trung tâm
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG BỆNH MẠCH MÁU HẮC MẠC DẠNG POLYP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng của bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp (PCV). Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 43 mắt (41 bệnh nhân) được chẩn đoán PCV bằng chụp ICG tại khoa Dịch kính – Võng mạc, bệnh viện Mắt Trung Ương tháng 10 năm 2013 đến hết tháng 02 năm 2020. Kết quả: Tuổi trung bình 60,49 ± 9,21 tuổi, trong đó có 21 bệnh nhân nam, 20 bệnh nhân nữ. Bệnh lý nền hay gặp nhất là bệnh tăng huyết áp (chiếm 65,9%). Triệu chứng nhìn mờ gặp ở hầu hết các trường hợp (41 mắt - 95,4%). Ngoài ra hầu hết bệnh nhân đều có các dấu hiệu cơ năng khác của hội chứng hoàng điểm như ám điểm (93%), nhìn méo hình (74,4%), thay đổi mầu sắc (48,8%) và nhìn hình nhỏ lại (60,5%). Đặc điểm gợi ý polyp trên lâm sàng là dấu hiệu nốt vàng cam phát hiện ở 23 mắt (53,5%). Trong các trường hợp quan sát thấy polyp trên lâm sàng, đại đa số đều ở dạng polyp đơn độc 22 ca (95,6%), chỉ có 1 trường hợp (4,4%) được ghi nhận là dạng chùm. Hầu hết bệnh nhân trong nghiên cứu có xuất huyết dưới võng mạc, chiếm tỉ lệ 76,7% (33 mắt). Kết luận: Các triệu chứng lâm sàng hay gặp đó là nhìn mờ, ám điểm, nhìn méo hình. Soi đáy mắt có các dấu hiệu gợi ý như xuất huyết dưới võng mạc, bong biểu mô sắc tố, xuất huyết, bong thanh dịch và điển hình là khối đỏ cam cạnh gai thị.
#bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp #xuất huyết dưới võng mạc #nốt cam đáy mắt
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BỆNH MẠCH MÁU HẮC MẠC DẠNG POLYP BẰNG LASER
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 510 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị laser bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng trên toàn bộ các bệnh nhân được chẩn đoán bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp có vị trí polyp quanh gai thị, ngoài hoàng điểm và ngoài cung mạch, đến khám và điều trị tại khoa Dịch kính – Võng mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương từ tháng 10 năm 2013 đến hết tháng 02 năm 2020. Kết quả: Điều trị laser cho 30 bệnh nhân (32 mắt) có polyp quanh gai thị, ngoài hoàng điểm và ngoài cung mạch gồm 16 nam và 14 nữ với độ tuổi trung bình là 59,23±7,53; thấp nhất là 45, cao nhất là 70 tuổi. Thị lực tăng từ 1,03(trước điều trị) còn 0,78 logMAR (thời điểm 6 tháng) với p<0,01. Độ dầy võng mạc trung tâm giảm từ 290; giảm tốt nhất và về mức bình thường là 232,81 µm sau 6 tháng theo dõi (p<0,01). Kết quả chung có 20 mắt điều trị tốt (62,5%), trung bình là 7 mắt (21,9%), kém ở 5 mắt (15,6 %), tỷ lệ thành công sau điều trị laser là 27/32 mắt (84,4%). Kết luận: Laser là một phương pháp điều trị polyp tương đối tốt, cho kết quả cải thiện về cả thị lực và chức năng đối với với các trường hợp polyp ngoài hoàng điểm trong điều kiện Việt Nam.
#bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp #laser
Đặc điểm chẩn đoán hình ảnh bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm chẩn đoán hình ảnh của bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp (PCV). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 43 mắt (41 bệnh nhân) được chẩn đoán PCV bằng chụp ICG tại Khoa Dịch kính - Võng mạc, Bệnh viện Mắt Trung ương tháng 10 năm 2013 đến hết tháng 02 năm 2020. Kết quả: Tuổi trung bình 60,49 ± 9,21 tuổi, trong đó có 21 bệnh nhân nam, 20 bệnh nhân nữ. Dấu hiệu đặc trưng trên OCT gợi ý chẩn đoán polyp là bong biểu mô sắc tố cao dạng vòm (62,8%), dạng ngón tay (16,3%) và dấu hiệu hai lớp (25,6%). Chụp mạch huỳnh quang ít có giá trị chẩn đoán bệnh. PCV được khẳng định chẩn đoán trên chụp ICG với đặc điểm hay gặp hơn là dạng đơn độc (76,7%) so với dạng chùm (23,3%); vị trí hay gặp là vùng hoàng điểm (69,8%), quanh gai thị gặp ít hơn (25,6%) và hiếm gặp ngoài cung mạch (4,7%). Polyp kèm theo mạng lưới chia nhánh bất thường (BVN) gặp ở 76,7% các trường hợp. Kết luận: Đặc điểm chẩn đoán hình ảnh của PCV phong phú, OCT có giá trị gợi ý, chẩn đoán chính xác cần chụp ICG.
#Bệnh mạch máu hắc mạc dạng polyp #OCT #chụp mạch huỳnh quang #ICG
Tổng số: 5   
  • 1